Câu chuyện xung quanh việc tro bay xỉ than nhà máy nhiệt điện than gây ô nhiễm, bức xúc trong nhân dân diễn ra gần đây, một lần nữa đưa vấn đề xử lý, tận dụng hiệu quả tro bay xỉ than của các nhà máy nhiệt điện thành tâm điểm của dư luận. Thực tế, tro bay xỉ than từ các nhà máy nhiệt điện có thể là nguyên liệu đầu vào rất tốt cho sản xuất các loại vật liệu xây dựng như: sản xuất gạch không nung, bê tông nhẹ, làm tấm trần, tường thạch cao, gốm sứ rất hiệu quả, đặc biệt là phụ gia cho sản xuất xi măng.
Theo các tài liệu khoa học, trong quá trình đốt cháy than để sản xuất điện, khoảng 20% chất vô cơ không cháy và cả lượng than chưa cháy hết bị dính vón thành các hạt lớn và rơi xuống đáy lò gọi là xỉ than hay tro đáy và 80% chất vô cơ không cháy còn lại sẽ bay theo khói lò thoát ra ngoài thành tro bay với khối lượng hàng triệu tấn mỗi năm. Tro bay xỉ than thường được thu hồi bằng hệ thống lọc bụi tĩnh điện.
Hiện cả nước có 18 nhà máy nhiệt điện than đang hoạt động sử dụng nguồn than trong nước khoảng 20 triệu tấn mỗi năm, và theo một ước tính, các nhà máy này thải ra trên ba triệu tấn xỉ than hàng năm, bên cạnh một lượng tro bay lớn gấp vài ba lần.
Theo Quy hoạch điện VII, các nhà máy nhiệt điện chuẩn bị đưa vào vận hành sắp tới sẽ sử dụng tối đa nguồn than khai thác trong nước, bên cạnh nguồn than nhập khẩu. Theo quy hoạch này, để sản xuất được 156 tỷ kWh điện mỗi năm vào năm 2020 (tổng công suất nhiệt điện than khoảng 36.000 MW) thì phải tiêu thụ hơn 67 triệu tấn than và đến năm 2030 khi tổng công suất nhiệt điện than tăng lên 75.000 MW thì phải cần đến 171 triệu tấn than. Điều đó đồng nghĩa với lượng xỉ than tro đáy lên đến 14 triệu tấn mỗi năm vào năm 2020, và gần 35 triệu tấn tro đáy hàng năm vào năm 2030, cùng hàng chục triệu tấn tro bay.
Đã có giải pháp
Tro bay xỉ than của các nhà máy nhiệt điện có thể làm phụ gia trong sản xuất xi măng, bê tông. Ngoài ra, tro bay xỉ than còn được sử dụng để làm chất liên kết gia cố các công trình giao thông, sản xuất gạch không nung, bê tông nhẹ, làm tấm trần, tường thạch cao, gốm sứ rất hiệu quả với tổng mức tiêu thụ có thể lên đến hàng chục triệu tấn/năm.
Trên thế giới, các quốc gia phát triển luôn khuyến khích sử dụng tro bay xỉ than từ nhà máy nhiệt điện trong xây dựng đường xá và đôi khi là điều kiện bắt buộc. Đơn cử như tại Pháp có đến 99% lượng tro bay xỉ than thải ra được tái sử dụng, tại Nhật Bản, con số này là 80%, tại Hàn Quốc là 85%.
Ở nhiều nước khác, tro bay xỉ than chủ yếu được sử dụng để sản xuất gạch không nung. Sản xuất gạch từ nguyên liệu này tiết kiệm năng lượng đến hơn 85% so với việc sản xuất gạch nung truyền thống từ đất sét.
Chẳng hạn, tại Mỹ, tro bay xỉ than được sử dụng như một chất phụ gia sản xuất xi măng, hoặc dùng làm vật liệu san lấp mặt bằng hay gia cố nền đường sau khi đã xử lý.
Mới đây, công ty SEFA ở South Carolina đã quyết định xây dựng một nhà máy tái chế 400.000 tấn tro bay xỉ than mỗi năm thành pozzolan làm nguyên liệu sản xuất bê tông. Trong khi đó, ở Ấn Độ, hiện có đến hơn 16.000 nhà máy sản xuất gạch từ tro bay xỉ than, giúp tái chế hơn 20 triệu tấn tro bay xỉ than hàng năm và cung cấp hơn 1/6 nhu cầu về gạch của thị trường Ấn Độ.
Ở Việt Nam cũng đã có nhiều công trình nghiên cứu về tái chế tro bay xỉ than làm phụ gia cho công nghệ bê tông đầm lăn, sản xuất gạch tuynel, xi măng, thạch cao, than tái chế và cũng đã được áp dụng vào sản xuất. Điển hình như dây chuyền sản xuất gạch không nung với công suất 3 triệu viên/năm của Công ty Nhiệt điện Cao Ngạn, hay ứng dụng công nghệ bê tông đầm lăn sử dụng phụ gia tro bay xỉ than (RCC) trong xây dựng đập thuỷ điện, đã được áp dụng cho các công trình đập thuỷ điện, trước tiên là thuỷ điện Sơn La. Công ty Sông Đà 12 cũng đã đầu tư xây dựng xưởng sản xuất phụ gia bê tông từ tro bay Nhiệt điện Phả Lại bằng phương pháp tuyển tĩnh điện, trong khi Công ty cổ phần Hải Sơn đã đầu tư xây dựng xưởng sản xuất phụ gia bê tông bằng phương pháp đốt trong lò tuynel.
Chung tay hành động
Chính phủ đã ban hành quyết định số 121/2008/QĐ-TTg, phê duyệt tổng thể phát triển vật liệu xây dựng Việt Nam đến 2020. Tong đó yêu cầu vật liệu không nung đến 2020 phải chiếm từ 30 - 40% tổng số vật liệu xây dựng trong cả nước, và đây là một tiền đề quan trọng thúc đẩy phát triển vật liệu không nung sử dụng tro bay xỉ than từ các nhà máy nhiệt điện chạy than trong các năm tới.
Hơn nữa, nhu cầu sử dụng tro bay và tro đáy làm nguyên vật liệu cho các công trình xây dựng, sản xuất xi măng, bê tông, như đã đề cập ở trên là khá lớn. Chẳng hạn, một nhà máy sản xuất xi măng cỡ vừa như xi măng Kansai Ninh Bình có công suất 1,4 triệu tấn/năm, có thể sử dụng khoảng 280.000 tấn phụ gia/năm.
Như vậy, với tổng công suất của các nhà máy xi măng ở Việt Nam khoảng 75 triệu tấn thì nhu cầu tro tuyển dùng làm phụ gia là rất lớn, có thể lên đến 14 triệu tấn tro bay xỉ than.
Rõ ràng là đầu ra đối với tro đáy và tro bay đã có, vấn đề còn lại là sự quyết tâm vào cuộc của các cơ quan nhà nước và sự tham gia tích cực của các doanh nghiệp.
Theo kết quả điều tra đánh giá nguồn tro bay xỉ than và các giải pháp sử dụng của Trung tâm Xi măng, Viện VLXD (Bộ Xây dựng) được xây dựng trên cơ sở của Quy hoạch điện VII, khối lượng tro bay xỉ thải trong năm 2015 khoảng 12,8 triệu tấn, đến năm 2020 khoảng 25,4 triệu tấn và đến năm 2030 khoảng trên 30 triệu tấn. Với khối lượng thể tích của xỉ là 0,8 tấn/m3, bãi chứa xỉ có độ sâu trung bình 2m thì trong năm 2015, nhu cầu của diện tích bãi chứa mỗi năm là 127,4 ha và sẽ còn tăng nhiều hơn nữa theo Quy hoạch điện VII (nếu không có giải pháp sử dụng ngay từ bây giờ).
Vào cuối tháng 9/2014, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1696/QĐ-TTg về một số giải pháp thực hiện xử lý tro, xỉ, thạch cao của nhà máy nhiệt điện, nhà máy hóa chất phân bón để làm nguyên liệu sản xuất VLXD, đến năm 2020, chỉ cấp diện tích bãi thải cho các dự án nhà máy nhiệt điện, hóa chất, phân bón với dung lượng chứa tối đa cho 2 năm sản xuất tương đương với quy mô, công suất của dự án.
Bên cạnh đó, QĐ 1696 cũng đưa ra 7 giải pháp thực hiện quyết định này. Trong đó, quy định thiết kế cơ sở các dự án nhiệt điện, hóa chất phải hoàn chỉnh đến khâu xử lý tro, xỉ, thạch cao và phương án thu hồi, xử lý các chất thải này. Đặc biệt, quyết định cũng nêu rõ, chủ đầu tư các nhà máy nhiệt điện, hóa chất phải có trách nhiệm trả chi phí xử lý tro, xỉ, thạch cao trong trường hợp không tự đầu tư dây chuyền thiết bị xử lý chất thải cho sản xuất VLXD.
Như vậy, Chính phủ đã có những giải pháp quyết liệt hơn trong việc xử lý tro bay xỉ than từ các nhà máy nhiệt điện, hóa chất. Và kỳ vọng chúng ta có thể sử dụng các loại phế phẩm này làm phụ gia cho sản xuất các loại VLXD để không phải đi nhập phế phẩm từ các nước khác trên thế giới và đặc biệt không phải khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên đang ngày càng cạn kiệt là có cơ sở.
Còn chừng nào chúng ta chưa có giải pháp triệt để, hiệu quả, biến tro bay xỉ than từ các nhà máy nhiệt điện thành vật liệu kinh tế hữu hiệu thì vấn đề tâm điểm dư luận về môi trường nhiệt điện than là điều khó tránh khỏi.