Tómtắt:
Do mặt biển đóng vai trò như một tấm
gương phản xạ hoàn hảo sóng âm nên có các hiệu ứng “ma” (ghost effects) gây nhiễu
ở cả phía nguồn phát và nguồn thu (source
and reciver ghost). Hiệu ứng “ma” do các sóng phản xạ từ mặt biển, trong đó
bao gồm cả nhiễu phản xạ nhiều lần (surface multiples) ảnh hưởng đến chất lượng
tài liệu địa chấn thu nhận được và cần phải loại trừ.
Để loại trừ những tác động nhiễu không
mong muốn đó và nâng cao chất lượng tài liệu địa chấn, người ta đã nghiên cứu, ứng
dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật và thu được thành tựu như sau: Về công
nghệ thu nổ đã thực hiện khảo sát 3D, 4D. Việc áp dụng các tiến bộ của công
nghệ thông tin, hệ thống định vị vệ tinh đã làm tăng độ chính xác định vị các điểm
thu, có thể sử dụng đồng thời và đồng bộ các tàu thu-nổ; Số mạch trong cáp thu đã
tăng đến hàng nghìn mạch cho phép tăng năng suất thu nổ, tăng nguồn thông tin
thu được và tăng độ phân giải của tài liệu địa chấn; Nguồn nổ và cáp thu cũng
có những cải tiến về chống nhiễu, làm tăng cường độ của tín hiệu thu;;… [8]. Về
thu nhận và xử lý tín hiệu, từ phương pháp dựa trên các phản xạ thông thường
ban đầu đã phát triển thành phương pháp điểm giữa chung/điểm sâu chung (CMP) đến phương pháp thu nhận-xử lý số liệu
địa chấn tập trung đa điểm (dựa trên việc hiệu chỉnh thời gian lan truyền sóng
mới phù hợp cho mọi mô hình địa chất và mọi dạng hình học của đối tượng nghiên
cứu [9]).
Tuy nhiên, việc áp dụng các phương
pháp và công nghệ trên ở Việt
I. Quy trình khảo sát địa chấn 2-D:
1.1.
Sơ đồ khảo sát địa chấn 2-D trên biển:
Hình
1. Mô hình khảo
sát 2D trên biển [6]
Tầu sẽ kéo cáp thu chạy dọc theo tuyến đo được
xác định từ trước
bằng sự hỗ trợ của hệ thống định vị vệ tinh GPS. Cáp thu Streamer gồm các đầu thu Hydrophones (bằng tinh thể áp điện) và người
ta ghép 12 đầu thu thành 01 kênh thu (01 nhóm đầu thu) có chiều dài 12,5m. Cứ
12 kênh thu lại tạo thành 01 Section dài 150 m và sử dụng 01 bộ LAUM để cấp
nguồn, tổng hợp số liệu từ 05 Sections hay từ 60 kênh thu, truyền thông tin về
hệ thống ghi nhận số liệu trên tàu và được gọi là từ một đơn vị đo (từ 01 Module).
1.1.
Nguồn nổ:
Nguồn nổ là súng hơi (Air Gun), cần đáp ứng 2 yêu cầu quan trọng. Thứ
nhất là độ phân giải (Seismic Resolution) của nguồn nổ. Khi phát xung áp lực
xuống các lớp
địa chất phíadưới nước,
sau khi va đập
vào các ranh
giới phản xạ sẽ đi ngược lên trên và được thu bởi các hydrophones. Nếu nguồn nổ có độ phân
giải tốt, tín hiệu địa chấn thu được sẽ rõ ràng và sắc nét. Thứ hai là ở khả năng xuyên sâu của xung lực, bởi vì năng lượng xung sẽ bị hấp thu mạnh khi đi qua các lớp đất đá. Do đó, để xuyên sâu, nguồn nổ cần có công suất lớn và có một dải tần số thích hợp.
Trên thực tế, để đạt được hiệu ứng tốt nhất cho nguồn
nổ, các súng hơi thường được ghép thành một nhóm nguồn nổ và cho nổ đồng thời. Tổng thể
tích khí của mỗi
lần nổ lên đến 3200 in3 (tương đương 52,438,4 cm3) và với áp suất lên đến 2000 psi cho mỗi súng.
Hình 2. Độ phân
giải của nguồn nổ ảnh hưởng đến chất lượng dữ liệu địa chấn [6]
1.1.
Truyền số liệu:
Có 2 phương pháp truyền số liệu thường được sử dụng:
Phương pháp phân chia thời gian đa
thành phần TDM (time division multiplex - số liệu từ các kênh thu được truyền
trên cùng một cáp nhưng sai lệch nhau về thời gian) và phương pháp phân chia tần số đa thành phần FDM ( frequency division multiplex- sai khác
nhau về tần số).
Trong cáp thu có dây passive và active là quan trọng.
Lệnh ghi từ hệ thống điều khiển sẽ truyền trên dây passive đến các module để yêu
cầu ghi số liệu. Dây thứ hai là dây active
được dùng để truyền thông tin thu được về hệ thống ghi nhận số liệu trên
tàu.
Khi lệnh ghi số liệu được truyền trên dây passive đến
module đầu tiên và gần nhất, module này chưa hành động gì mà chờ cho
đến khi lệnh ghi được truyền đến module
cuối cùng và xa tàu nhất, gọi là module
1. khi đó module 1 mới
xuất số liệu vào dây active để truyền
sang module 2. Module 2 sẽ nhận luôn số liệu của module 1 và xuất số liệu, tức là xuất số
liệu của cả module 1 và module 2. Cứ tiếp tục như vậy số liệu sẽ
được xuất hoàn toàn tại module cuối
cùng và truyền về hệ thống ghi số liệu trên tàu.
1.2.
Ghi số liệu:
Hệ thống ghi nhận số liệu ví dụ như hệ thống SEAL
CMXL 2000 có khả năng thu nhận được từ 20.000 kênh địa chấn. Hệ thống gồm có 2 phần
cơ bản:
Phần Processing
Remote Module (PRM): Trung
tâm điều khiển, giao tiếp với các thiết bị ngoại vi, chuyển đổi và phân phối dữ
liệu sang dạng chuẩn Seg-D.
Phần Human Computer
Interface (HCI): Cho
phép tác động vào và quản lý hệ thống/quản lý quá trình thu nổ. Tại HCI có thể
cài đặt tham số của quá trình thu nổ như khoảng cách thu nổ, thời gian ghi
sóng, lọc tần số cao, lọc tần số thấp,…
Người ta sử
dụng kết hợp hệ
thống ghi nhận số liệuvới hệ thống eSQC Pro. Hệ thống eSQC Pro thể hiện số liệu của từng điểm nổ trong miền thời
gian thực, sóng đầu, mức độ nhiễu, biên độ của tín hiệu, … để người sử dụng quyết định về việc số liệu thu được có tốt hay không,
mức độ nhiễu như thế nào….
1.3.
Xử lý số liệu sơ bộ:
Sau khi số liệu được thu thập và lưu trữ vào băng/đĩa,
dữ liệu này sẽ được xử lý thô bằng chương trình phân tích và xử lý địa chấn, ví
dụ như chương trình GeoCluster. Hệ thống xử lý sơ bộ độc lập với hệ thống ghi nhận
số liệu và bao gồm các thao tác:
Kiểm tra (multiple QC) các thông số đầu vào; định
hình dạng đo (Geometry); quản lý số liệu; xử lý tín hiệu (signal processing); nội
suy số liệu trong miền x-t; hạn chế, làm giảm nhiễu bằng phép biến đổi F-K,
liên hệ các điểm đo kế cận,…; hiệu chỉnh động học, dịch chuyển thời gian trước
cộng, dịch chuyển độ sâu trước cộng; cộng sóng và chuyển sang lát cắt địa tầng.
II. Những trở ngại trong khảo sát
địa chấn 2D và giải pháp khắc phục:
2.1. Khắc phục tác động của nhiễu từ các phản xạ “ma”:
Do mặt biển
phản xạ rất tốt sóng âm nên gây ra hiệu ứng “ma” (ghost) trong dữ liệu địa chấn
thu nhận được. Tại mỗi vị trí nguồn nổ của mỗi vụ nổ luôn có sóng
phản xạ về từ mặt biển, bị giữ chậm một khoảng thời gian (source
ghost) và (tiếp tục) theo đường truyền trực tiếp của trường sóng địa
chấn từ nguồn nổ đến đáy biển (Hình 3). Tác động của “source ghost”
là ở cả tần số thấp và cao nên sẽ không thể nhận ra bức tranh đầy đủ từ toàn
bộ dải tần của tín hiệu thu được. Tương tự như vậy, với mỗi vị trí máy thu
dọc theo tuyến cáp thu (streamer) cũng có sóng phản xạ “ma” (receiver ghost)
từ mặt biển (Tia “3” trong Hình 4), gây nhiễu liên tục và là tác động
không mong muốn đối với sóng địa chấn hữu ích.
Hình
3. Phương pháp sử
dụng sensors kép (dual sensors) [1]
Như vậy,
tác động của sóng phản xạ “ma” là cả ở phía “nguồn” (source ghost) và phía
“thu nhận” (reciver ghost) khi thực hiện một khảo sát đơn tuyến nào đó. Những
tác động không mong muốn này và cả nhiễu phản xạ nhiều lần từ mặt biển (như Tia
“4” trong Hình 4 là một dạng Multiples) cản trở liên tục (làm “bẩn” và “mờ”
hình ảnh về lớp địa chất phía dưới), tác động dọc theo cáp thu, gây nhiễu tín
hiệu địa chấn gốc (Tia “1” trong Hình 4 [1]) dưới đây.
Mô phỏng đường truyền sóng âm từ một
nguồn nổ:
Hình
4. Mô phỏng đường
truyền sóng âm từ nguồn nổ [1]
Tia “1” là
tia “sóng chủ/gốc”: {Từ nguồn nổ - mặt đất/đáy biển - phản xạ về máy thu};
Tia “2” là
nguồn (phát) phản xạ “ma”: {Từ nguồn nổ - mặt biển - đến đáy biển –máy thu};
Tia “3” là
nguồn (thu) phản xạ “ma”: {Từ nguồn nổ - đáy biển - mặt biển - máy thu};
Tia “4” bao
gồm cả nguồn phát và nguồn thu phản xạ “ma”: {Từ nguồn nổ - mặt biển – đáy
biển – mặt biển (lần 2) – máy thu}.
2.1.2. Giải pháp khắc phục (Remove the Ghost
Reflections):
a) Về bản
chất, sự giao thoa giữa trường sóng chủ phản xạ về từ đáy biển (từ
đối tượng nghiên cứu) và trường sóng “ma” phản xạ từ mặt
biển như trình bày trên đây sẽ thay đổi theo độ sâu của nguồn
(liên quan đến “source ghost”) hoặc độ sâu của cáp thu (“receiver ghost”). Liên
quan đến nguồn thu phản xạ “ma” (receiver ghost), ở một độ sâu nào đó
của cáp thu thì biên độ của sóng phản xạ “ma” ở những tần số nhất
định sẽ bị triệt tiêu hoàn toàn tại đầu ghi, còn biên độ ở những tần
số khác sẽ tăng gấp đôi. Nhìn chung, các tần số gắn với các đỉnh
(biên độ) sẽ dịch chuyển dần về phía giá trị tần số thấp
theo chiều tăng của độ sâu và ngược lại. Hiện tượng nguồn thu phản
xạ “ma” (receiver ghost) luôn là vấn đề đối với khảo sát đơn tuyến,
cả về địa vật lý và hoạt động. Do đó, người ta đã đặt cả nguồn nổ và
cáp thu ở một độ sâu nào đó so với mặt biển để tạo thuận lợi cho việc thu sóng
chủ và đồng thời làm suy giảm nhiễu ở một số tần số cố định – Phương
pháp này thường vẫn hay được sử dụng.
b) Một
phương pháp khác được dùng để loại trừ nhiễu phản xạ “ma” đạt hiệu quả cao là
sử dụng sensors kép (Dual-Sensors). Do
cáp thu bằng hydrophones không thể phân biệt được chiều phân cực ngược
nhau của trường sóng địa chấn đi lên từ dáy biển và trường sóng địa chấn
đi xuống từ mặt biển (receiver ghost). Kết quả là các sóng phản xạ “ma”
từ mặt biển gây nhiễu ở những tần số nhất định, làm suy giảm độ phân
giải hình ảnh địa chấn và giảm giá trị dữ liệu khảo sát. Do đó, người
ta đã nghiên cứu ứng dụng các sensors kép, bao gồm đầu thu Hydrophones theo
truyền thống và sensors đo vận tốc để phân biệt được chiều của “sóng lên” và chiều
của “sóng xuống”, từ đó có thể loại trừ những sóng đi xuống từ mặt biển – Phương
pháp này mới được đưa vào sử dụng năm 2007.
Hình 5. Phương pháp sử dụng sensors kép (dual-sensors) [3]
c) Việc phân bố
thời gian nổ và độ sâu của nguồn phụ cũng là phương pháp khá
hiệu quả trong việc loại trừ nguồn phản xạ “ma”. Phương pháp được sử dụng
từ năm 2011 và hoạt động theo nguyên tắc như mô tả ở Hình 6 [4]. Từ phân bố
độ sâu của các nguồn phụ sẽ tạo ra các hàm sóng “ma” nhẹ (wavelet
functions) để bù/bổ sung cho những bậc sâu trong quang phổ. Từ độ trễ về thời
gian nổ được giữ chậm (thường là < 1 giây) của các nguồn phụ phản ánh cho lớp địa chất đồng nhất và với những máy thuvề cơ bản vẫn ở những vị trí tương tự. Về hiệu suất và mật độ nổ
của nguồn phụ cũng tương tự như của nguồn trước đây (theo truyền thống).
Hình
6. Phổ tần số
của sóng “ma” từ 2 nguồn nổ ở độ sâu khác nhau [4]
Trong Hình 6 [4], hai nguồn phụ hoạt động ở
những độ sâu khác nhau sẽ tạo ra sóng nguồn nhỏ (wavelet
functions), với sự khác bịệt về độ giữ chậm giữa sóng chủ (của nguồn
phụ) và sóng nguồn phản xạ “ma” source ghost (cột trung tâm. Các sóng nhẹ có phổ biên
độ dùng để bù/bổ sung (cột bên phải). Các bước xử lý để
loại bỏ nguồn “ma” được minh họa dưới đây.
Các nhà khoa học đã phát triển công nghệ xử lý dữ liệu sử dụng các độ giữ chậm về thời
gian nổ đã biết để tách riêng ra các trường sóng
của nguồn phụ. Bước loại bỏ nguồn “ma” tiếp
theo (loại trừ source ghost) liên quan đến việc táikết hợp những trường
sóng này và sử dụng
phương pháp đã có để phục vụ cho xử lý dữ liệu.
Hình 7. Xử lý từ hai hàm sóng “ma” [4]
Hình 7_[4] trình
bày hai hàm sóng “ma” nguồn (two source ghost
functions) ở bên trái [4]. Các đỉnh tự tương quan là thẳng hàng để bù trừ cho sự khác
biệt về độ sâu, rồi sau đó cộng lại với nhau. Sau khi chuẩn hóa quang
phổ ởbước cuối cùng, kết quả thu được là một thanh đơn không còn liên
quan đến nguồn phản
xạ “ma”.
2.2. Tác động do cáp thu bị trôi lệch tuyến:
Do tác động chủ yếu của dòng hải lưu làm cho cáp thu bị trôi lệch, không nằm thẳng trong tuyến định trước (Hình 8) mặc dù là tàu kéo luôn chạy thẳng tuyến. Vì vậy sẽ có sự biến dạng ở sóng chủ và cả nhiễu phản xạ nhiều lần trong bộ tín hiệu địa chấn 2D thu được (do cấu hình đo thực tế khác với cấu hình đo tính toán) và sẽ gây khó khăn cho việc xử lý tín hiệu.
Hình 8. Phác thảo biến dạng sóng thu được do cáp bị trôi dạt [7]
Hình 8 là một phác thảo trực quan trên mặt bằng đơn
giản của hệ thống thu nhận địa chấn trên biển, thể hiện việc cáp thu bị trôi
dạt đã tạo ra những biến dạng sóng thu được. Giả sử đường nét gạch miêu tả trong
một mặt phẳng thẳng đứng có chứa đường tia SAR của bội bề mặt (của nhiễu
phản xạ nhiều lần), ở bậc đầu tiên. Sử dụng các tọa độ dọc trục thì thuật
toán suy giảm bội bề mặt đòi hỏi phải dự đoán (trước) được bội bề mặt đó,
bằng việc kết hợp từ 02 sóng phản xạ gốc ở trong mặt phẳng lan truyền được
thể hiện bằng đường SB. Nhìn chung, liên quan đến bội thực sự, bội được dự
đoán sẽ bao gồm các lỗi về động học và biên độ, phụ thuộc vào thời gian truyền và cự ly thu-nổ / độ lệch giữa nguồn và máy thu
(offsets). Những lỗi này sinh ra là do sóng chủ kết hợp với bội bề mặt (với nhiễu
phản xạ nhiều lần), theo như cấu trúc hình học 2D cho thấy thực tế không có
tín hiệu gốc nào mà được kết hợp với bội bề mặt sẽ được ghi (theo đường SB).
Những sóng chủ thực sự sẽ không bao giờ được ghi do không có trường hợp có nguồn
ở S và máy thu A cũng như trường hơp nguồn ở A máy thu ở R.
Nếu cáp thu trôi dạt là vừa phải và dưới mặt biển là
không có những biến đổi không gian bất thường, thì các lỗi dự báo bội bề mặt
do cáp thu trôi dạt là nhỏ và
có thể xử lý khắc phục. Trong khảo sát 2D truyền thống, bộ hiệu chỉnh đuôi
cáp được đặt ở phao đuôi nhằm giữ cho cáp thu được kéo theo đường thẳng, nằm trong
tuyến khảo sát định trước (tại phao đuôi có gắn thiết bị định vị vệ tinh để
nhận biết tọa độ của đuôi cáp và điều chỉnh). Ngoài ra, cũng có thể mở rộng khoảng
cách từ điểm kết thúc cáp thu đến phao đuôi (mở rộng đoạn không có gắn các đầu
thu) để giữ cho đoạn cáp chính (có gắn các đầu thu) tương đối thẳng.
2.
Kết luận:
Có thể áp dụng một số biện pháp dưới đây để góp
phần loại trừ nhiễu phản xạ từ mặt biển.
-
Sử
dụng nguồn phụ cùng với phương án phân bố về độ sâu và độ giữ chậm thời gian nổ
khác nhau như nêu ở trên có thể loại trừ được nguồn “ma” (source ghost) – Loại
trừ tia số 2: nguồn phát phản xạ “ma” (từ nguồn nổ - mặt biển – đến đáy biển –
đến máy thu).
-
Sử
dụng các sensors kép có thể loại trừ được các sóng phản xạ về từ mặt biển (receiver
ghost) và cả nhiễu phản xạ nhiều lần (surface multiple), thu được đến mức tối
đa thành phần tín hiệu gốc hay đạt được độ phân giải cao trong dữ liệu địa
chấn;
-
Đặc
biệt, từ việc phân biệt được chiều của “sóng lên” và “sóng xuống” khi sử dụng sensors
kép đã nảy sinh ý định khai thác chính từ nhiễu phản xạ nhiều lần có mang theo dữ
liệu địa chấn, nếu có thể tách được những sóng này ra trong quá trình xử lý tín
hiệu. Ví dụ như sử dụng công nghệ SWIM (separated wavefield imaging of multiple)
của Hãng PGS đã thu được hình ảnh khảo sát địa chất rất rõ ràng (Hình 9b) và còn
được ứng dụng tốt cho việc khảo sát những vùng nước nông, đặc biệt đạt
hiệu quả khi khảo sát với góc phương vị rộng / toàn phương vị:
Trong Hình 9 [5], tác giả so sánh hai lớp cắt ở thời gian ở 120ms TWT,
độ sâu nước là 70 m. Với SWIM
được áp dụng đối với sóng phản xạ gốc (Hình
9a), kết quả thu được là hình ảnh có chứa các đường cắt ngang cản trở việc
quan sát ngay cả với tầng địa chất nông. Với SWIM được
áp dụng đối với bội bề mặt surface multiples (Hình 9b), kết quả thu được là hình ảnh liên tục khác thường
và có độ phân giải cao do đã lấy được thông tin để bổ
sung từ nhiễu phản xạ nhiều lần (surface multiples).
ThS.Nguyễn
Văn Hoàng (giới thiệu)
3.
Tài liệu tham khảo:
1) http://pgs.com/en/Geophysical-Services/GeoStreamer-GS/The-Technology/The-Ghost/
2) http://pgs.com/en/Geophysical-Services/GeoStreamer-GS/The-Technology/
3) http://pgs.com/en/Geophysical-Services/GeoStreamer-GS/The-Technology/Dual-Sensors/
4) http://www.pgs.com/en/Geophysical-Services/GeoStreamer-GS/The-Technology/Distributed-Source/
5) http://www.pgs.com/en/Geophysical-Services/GeoStreamer-GS/Benefits/Imaging-Multiples/
6) Quy trình khảo sát địa chấn 2 D và
các thiết bị trên tàu (tàu Bình Minh 02);
7) Dragoset-Jericevic
(1998) - Some remarks on surface
multiple attenuation (GEOPHYSICS, VOL. 63, NO.2 (MARCH-APRIL 1998); P.
772-789, 15 FIGS);
8) Tạp chí Dầu khí –
Số 4/2012;
9) Tạp chí Dầu khí -
Số 11/2013.